Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Tại sao đánh răng kỹ mà vẫn bị sâu răng?

Sự tăng trưởng của nha khoa ngày nay với nhiều vật liệu và kế hoạch điều trị phòng ngừa sâu răng đã làm giảm tỉ lệ sâu răng một cách đáng kể. Tuy vậy đó vẫn còn là vấn đề ở một số trẻ em, trẻ vị thành niên và ngay cả đối với những người trưởng thành.



Nguyên nhân gây sâu răng là do mảng bám chứa vi khuẩn bám chắc trên bề mặt răng, đặc biệt ở vùng hố rãnh trên mặt nhai hoặc vùng tiếp xúc giữa các răng. Khi ta ăn uống các chất có chứa đường hoặc tinh bột, vi khuẩn ở mảng bám sẽ biến các chất này thành acid và tấn công vào men răng. Do đặc tính dính chắc của mảng bám, các acid này được duy trì trên răng của bạn; sau nhiều lần tấn công, men răng sẽ bị phá hủy và tạo ra các lỗ sâu trên răng.

Cách ngăn ngừa sâu răng:

- Chải răng ngay sau bữa ăn, chải đúng kế hoạch điều trị với kem đánh răng có fluoride.

- Làm sạch vùng tiếp xúc giữa các răng và kẽ răng bằng chỉ tơ nha khoa.

- Thực hiện chế độ ăn nhiều rau quả, các chất có xơ và hạn chế ăn vặt.

- Sử dụng dung dịch súc miệng như Listerine có tác dụng diệt khuẩn, tiêu hủy mảng bám và giảm viêm nướu.

- Khám răng thường xuyên để được làm sạch mảng bám - vôi răng.

- Nhờ nha sĩ xử lý bề mặt răng bằng các chất phủ bề mặt (sealant) để phòng ngừa sâu răng, đặc biệt là ở vùng mặt nhai các răng hàm.

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Tìm hiểu về tật nghiến răng

Nghiến răng là một hoạt động cận chức năng của hệ thống nhai, gọi là hoạt động cận chức năng là vì cũng là hoạt động của hệ thống nhai với sự tham gia của tất cả các yếu tố thần kinh – cơ, nhưng không nhằm mục đích thực hiện chức năng.





Nghiến răng xảy ra khá phổ biến, chiếm 10% dân số trưởng thành. Thường người bệnh không biết mình có nghiến răng vì nó chỉ xảy ra lúc ngủ.Bệnh nhân thường chỉ đi khám bệnh vì những hậu quả của nghiến răng gây ra hơn là triệu chứng nghiến răng, mặc dù triệu chứng nghiến răng gây khó chịu rất nhiều cho người thân. Nghiến răng là vấn đề còn đang tranh cãi đa số, ngay cả định nghĩa về nghiến răng cũng như những tiêu chuẩn về chẩn đoán vẫn chưa hoàn toàn thống nhất. Những vấn đề trình bày ở đây là những ý kiến đúc kết từ các concensus về nghiến răng (tức nghiên ý kiến được đồng tình nhiều nhất).  

 

Mặc dù nghiến răng có nguyên nhân chủ yếu là từ bệnh học thần kinh, nhưng triệu chứng lâm sàng của nghiến răng chủ yếu thể hiện ở hệ thống nhai, bao gồm các triệu chứng ở răng, mô nha chu, cơ nhai và khớp thái dương hàm. Và điều trị cho đến nay chủ yếu do Bác sĩ nha khoa phụ trách.  

Biểu hiện ở răng và mô nha chu: 
1.      Mòn răng: Tùy mức độ nghiến răng, thời gian nghiến răng và đô cứng mô răng mà mức đô mòn răng là nhiều hay ít. Nhiều trường hợp các răng cối mòn đến lô tủy, các răng cửa mòn đến :hơn 2/3 chiều cao của răng.   
2.      Nứt, gãy răng: Nứt gãy răng cũng là một dấu hiệu của nghiến răng. Cường độ lực cao, tác động lên những vùng mất cấu trúc chịu lực của răng là vì sao của gãy nứt. Tình trạng gãy, nứt có thể khu trú ở phần thân răng, hoặc lan xuống chân răng. trường hợp nứt, gãy chi tiết có thể thấy dễ dàng, nhưng cũng có nhiều nếu rất khó chẩn đoán. Dấu hiệu duy nhất của những trường hợp này là ê buốt không rõ lý do. Các bác sĩ nha khoa ít kinh nghiệm cũng rất dễ bỏ sót những nếu này.  
3.      Ê buốt răng: Có thể do mòn răng hoặc gãy, nứt răng. Nếu kiểm tra không thấy mòn răng thì cần phải xem xét có tình trạng gãy nứt xảy ra hay không.  
4.      Lung lay răng: Nếu mô nha chu suy yếu, nghiến răng có thể biểu hiện bởi tình trạng lung lay răng. Trên phim X quang sẽ có dấu hiệu mất xương.  
Biểu hiện ở hệ thống cơ nhai: 
Biểu hiện chủ yếu trên hệ thống cơ nhai là tình trạng đau cơ. Do co thắt với cường độ mạnh, các sản phẩm thoái biến sinh ra không kịp đào thải, còn ứ đọng trong cơ gây nên đau cơ. Một số giả dụ có thể có dấu hiệu phì đại cơ nhai.  
Cơ nhai bị ảnh hưởng rõ ràng và dễ thấy nhất là cơ cắn, bởi vậy, bệnh nhân thường sẽ có cảm giác đau âm ỉ hai bên vùng má, gần góc hàm.  
Biểu hiện ở khớp thái dương hàm : 
Khớp thái dương hàm cũng bị quá tải trong nếu nghiến răng. Lực nhai gây ra sẽ tác động vào hệ răng và khớp thái dương hàm. Lực tác động lên răng làm mòn răng, gãy nứt răng, lung lay răng… đồng thời tác động lên khớp gây ra những tổn thương cấu trúc khớp. Tùy mức độ tổn thương khớp mà bệnh nhân sẽ có nhiều biều hiện riêng biệt: đau khớp, tiếng kêu vùng khớp, rối loạn vận động (há miệng lệch, há miệng hạn chế…)  
Biểu hiện khác: 
Ngoài những triệu chứng chủ yếu ở bộ máy nhai đã nêu, bệnh nhân còn có thể có dấu hiệu đau đầu, cùng những biểu hiện về tâm lý như căng thẳng, căng thẳng… 

Và với cả thảy các triệu chứng trên chúng ta đều cần phải được khám và điều trị. 

Vấn đề vì sao của nghiến răng gây khá nhiều tranh cãi từ trước đến nay. ngày nay, gần như các nhà nghiên cứu cho rằng rằng nghiến răng do nhiều lý do đặc biệt phối hợp gây ra, bao gồm các yếu tố tại chỗ (rối loạn khớp cắn), yếu tố tâm lý (stress, lo âu, căng thẳng…) và yếu tố bệnh lý thần kinh. Trước đây, yếu tố tại chỗ được xem là yếu tố chính gây ra nghiến răng, rồi sau đó cho rằng yếu tố tâm lý mới là vì sao, nhưng những nghiên cứu gần đây lại cho rằng yếu tố bệnh lý thần kinh lại  là yếu tố chính.  
Yếu tố tại chỗ 
Vướng cộm khớp cắn được cho là vì sao của nghiến răng trong một thời gian dài. Hãy tưởng tượng từng cặp răng như từng cặp cối xay. Hệ thống răng sẽ bao gồm nhiều cặp cối xay và chúng phải hoạt động đồng bộ với nhau. Vướng cộm khớp cắn làm cản trở hoạt động đồng bộ này và nghiến răng là một cách phản ứng của cơ thể nhằm loại bỏ những vướng cộm này. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng những vướng cộm khớp cắn không phải là tại sao chính của nghiên răng. Nghiên cứu so sánh những người nghiến răng cho thấy không phải ai cũng có vướng cộm khớp cắn. Và ngược lại, phần lớn người có vướng cộm khớp cắn nhưng không hề có nghiến răng. Đồng thời cũng không có nghiên cứu nào chứng minh được rắng vướng cộm khớp cắn là lý do của nghiến răng. Như vậy, vai trò của nó (nếu có) chỉ là vai trò phụ, chứ không phải là vai trò chính.  
 Yếu tố tâm lý 
Yếu tố tâm lý cũng được cho là nguyên nhân ủa nghiến răng trong một thời gian. Những  người nghiến răng thường hay căng thẳng. Và nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy stress cũng là một yếu tố quan trọng ở những người nghiến răng. Dù vậy những nghiên cứu chủ yếu thuộc loại nghiên cứu phỏng vấn. Những nghiên cứu gần đây, sử dụng điện cơ đồ, điện não đồ, điện tâm đồ phối hợp trong nghiên cứu giấc ngủ cho thấy rằng thực sụ không có liên quan giữa stress và nghiến răng. Chỉ có yếu tố căng thẳng là có ý nghĩa thống kê trong lien quan với nghiến răng.  
Yếu tố bệnh học thần kinh  
Yếu tố bệnh học thần kinh ngày càng được lưu ý nhiều hơn và được xem là tại sao chính của nghiến răng. Ví dụ như nghiến răng có liên quan đến những rối loạn giấc ngủ, những thay đổi sinh hóa trong não, một số thuốc, sau chấn thương sọ não, nghiện rượu, hút thuốc… và ngay cả yếu tố di truyền hiện tại cũng xếp vào nhóm này.  
Nghiến răng chủ yếu xảy ra trong giấc ngủ, và có liên quan mật thiết đến đáp ứng tỉnh thức (arouse response) của cơ thể. Những ghi nhận liên quan giữa nghiến răng và đáp ứng tỉnh thức cho thấy 86% giả dụ nghiến răng xảy ra trong giai đoạn này. Đáp ứng tỉnh thức đặc trưng bởi giấc ngủ kém sâu, nhịp tim tăng, nhịp thở tăng và có những vận động như xoay người, co chân, co tay… trong khi ngủ. Mớ, mộng du… cũng là những hiện tượng xảy ra trong quá trình này. Những hiện tượng này còn gọi là hiện tượng cận giấc ngủ (parasomnia) và nghiến răng cũng được xem là một hiện tượng cận giấc ngủ.  
Đặc biệt những nghiên cứu gần đây xác nhận có sự liên quan giữa rối loạn hệ thống dẫn truyền thần kinh trung ương với nghiến răng. Khả năng là có tình trạng mất cân bằng giữa các đường dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp trong hạch nền, nơi tập trung những nhân dưới vỏ có nhiệm vụ phối hợp và điều hòa các động tác. Sự mất thăng bằng là do rối loạn vận chuyển các dẫn xuất dopamine gây nên. Phát hiện này giải thích cho rất nhiều trường hợp  nghiến răng do sử dụng thuốc lắc (ectasy), nghiện thuốc lá, hoặc một số thuốc điều trị bệnh tâm thần hay bệnh thần kinh gây ra. Amphetamine (ectasy) có tác dụng làm gia tăng nồng độ dopamine trong não, hoặc nicotine (trong thuốc lá) lại có tác dụng kích thích hệ dopaminergic…đã giúp giải thích những ghi nhận liên quan giữa người hút thuốc lá hay sử dụng amphetamine với nghiến răng.  
Yếu tố di truyền  
Trước đây di truyền cũng được xem là vì sao của nghiến răng. Nghiên cứu với cỡ mẫu lớn nhất về liên quan giữa di truyền và nghiến răng là của CHRISTER HUBLIN và cộng sự (1998)  dựa trên phỏng vấn (questionnaire) trên 1298 cặp sinh đôi cùng trứng và 2419 cặp sinh đôi khác trứng từ 33 đến 60 tuổi. Tỉ lệ nghiến răng xảy ra liên quan đến di truyền chiến 39 – 64%.  Tuy nhiên, Michalowicz và cộng sự thực hiện nghiên cứu trên 250 cặp sinh đôi bằng cách phỏng vấn và nghiên cứu lâm sàng lại cho kết quả ngược lại. bởi thế, vẫn chưa thể kết luận được là di truyền có liên quan đến nghiến răng hay không.  

Có 2 cách điều trị được Ứng dụng hiện nay là điều trị thuốc và điều trị bằng khí cụ miệng. 

Điều trị thuốc:  
Thuốc được sử dụng trong điều trị nghiến răng có thể là thuốc uống, thoa thoa và thuốc chích. Thuốc uống là loại thuốc có tác dụng giảm lo âu như buspirone, thường sử dụng trong ví như nghiến răng là tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm. Những ví như nghiến răng khác không nên sử dụng thuốc này.  
Thuốc chích là một loại thuốc có tác dụng làm liệt cơ: Botox (thường sử dụng trong nét đẹp để xóa nếp nhăn). Thuốc này sử dụng chích vào cơ cắn có tác dụng trong vòng 4 – 6 tháng. Nhiều nghiên cứu cho thấy đây là một cách khá hiệu quả trong nhiều trường hợp, như sau chấn thương, lạm dụng amphetamine (thuốc lắc)… 
Thuốc thoa là một hỗn hợp gồm các thuốc dãn cơ, kháng viêm, an thần với thành phần chính gồm : cyclobezaprin, có tác dụng làm giảm co thắt cơ, kết hợp với kháng viêm loại nonsteroid (keto-profen) cùng với an thần là diazepam. Thuốc này được thử nghiệm có tác dụng tốt trong nhiều giả dụ. Đây là một loại thuốc mới, đăng lý bản quyền vào tháng 10/2003.  
Điều trị bằng khí cụ miệng 
Điều trị khí cụ miệng (máng nhai) đã được thực hiện từ lâu với những hiệu quả được chứng minh trên lâm sàng. Mục đích của máng nhai nhằm làm giảm khả năng mòn răng, gãy nứt răng do nghiến răng gây ra.  Đồng thời, máng nhai cũng làm giảm tình trạng co thắt của các cơ nhai. Việc điều trị nghiến răng bằng máng nhai bắt buộc phải mang máng nhai trong một thời gian dài. Và khi không mang máng nhai, người ta thấy nghiến răng xuất hiện trở lại. Cho đến nay máng nhai vẫn là liệu pháp chính trong điều trị nghiến răng trên thế giới. Dù vậy, chẳng phải máng nhai hiệu quả trong tất cả các giả dụ nghiến răng (Theo một số nghiên cứu gần đây cho thấy máng nhai không có hiệu quả trong một số trường hợp).  

Nghiến răng không chỉ gây khó chịu cho người thân mà còn gây những tổn hại ngay chính người bệnh. Những tổn hại này cần phải được ngăn ngừa trước khi quá muộn. Hãy đến các BS chuyên khoa đề được khám và tư vấn điều trị ở giai đoạn sớm là hướng logic. Một ngành chuyên sâu nghiên cứu và điều trị nghiến răng trong ngành nha khoa là chuyên khóa cắn khớp học. Dù thế, bây giờ, chuyên ngành này chưa phát triển lắm ở Việt nam

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

Răng sứ là gì, Nguyên vật liệu làm răng sứ ?

Răng sứ là dạng phục hình giúp tái tạo lại hàm răng và nụ cười cho bạn. Răng sứ gồm 1 lớp sườn ôm sát cùi răng, bên ngoài được bao bọc bởi nhiều lớp sứ - tạo nên phục hình răng trong đẹp tự nhiên.

Răng sứ gồm có 2 loại: Răng Toàn Sứ và Răng Sứ kim khí

+ Sứ kim loại: lớp sườn bên trong được làm bằng kim khí ôm sát cùi răng, phủ bên ngoài bởi nhiều lớp sứ.

Ưu điểm: đáp ứng phục hình ngay với uổng vừa phải
Khuyết điểm: sườn làm bằng kim khí nên sau 1 thời gian dùng sẽ xuất hiện ánh xám kim loại nơi cổ răng nên sẽ không được thẩm mỹ.
 

 



Đúc sườn kim loại


*Khuyến cáo: khi đến làm răng, bạn cần đề nghị Nha khoa điều trị sử dụng Nguyên vật liệu chính hãng, có xuất xứ rõ ràng để bảo đảm an toàn cho phục hình, cho sức khỏe của chính bạn

+ Toàn Sứ: lớp sườn bên trong được làm bằng sứ, phổ biến và chuẩn mực nhất trên thế giới hiện là sườn sứ Zirconia của Ivoclar Vivadent (Thụy Sĩ) và Vita (Đức).

Ưu điểm: sườn có màu trắng, thẩm mỹ, không gây ánh xám nơi cổ răng, chịu lực nhai rất cao, cứng chắc, tương thích sinh học tốt với cùi răng, có khả năng đề kháng với sự lây nhiễm đứt gãy (với điều kiện sử dụng nguyên vật liệu chính hãng).

 



*Khuyến cáo: khi đến làm răng, bạn cần đề nghị Nha khoa điều trị sử dụng Nguyên vật liệu chính hãng, có xuất xứ rõ ràng để bảo đảm an toàn cho phục hình, cho sức khỏe của chính bạn

 

Nghiến răng về đêm bắt nguồn từ stress

Chuông báo thức reo và bạn uể oải leo ra khỏi giường. Mắt bạn vẫn díu lại còn hàm răng thì cứng nhắc, đến nỗi bạn thấy nhức cả hai bên thái dương.



"Đó chính là dấu hiệu của việc nghiến răng suốt đêm", giáo sư Stephan Doering tại Đại học Clinic of Munster ở Đức cho biết. "Nếu bạn gặp phải tình trạng này thì nên đi khám bác sĩ ngay".

Nghiến răng lúc ngủ là tình trạng nhai răng một cách vô ý thức. Chỉ một số nhỏ những người lâm vào tình trạng này nhận thức được hành vi của mình. "Thường là chỉ khi bạn đời của những người này kêu ca trước thì họ mới biết", Doering nói.

Vào ban ngày, những người bị tật nghiến răng khi ngủ cũng thường nhai răng kèn kẹt mỗi khi bị stress, chẳng hạn như khi lái xe, tham gia kỳ thi, hoặc tập trung vào một nhiệm vụ nào đó.

Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này. Trong nhiều trường hợp, nó là do bệnh căng thẳng thần kinh hoặc khả năng kiểm soát stress kém.

"Đó chính là một phiên bản khác của hiện tượng gầm gừ ở động vật", Ingrid Peroz tại bệnh viện Charite ở Berlin cho biết.

5 nguyên nhân gây hôi miệng

Biết rõ vì sao gốc rễ gây hôi miệng sẽ giúp điều trị chứng hôi miệng triệt để và hiệu quả nhất.
 



1. Hôi miệng do vi khuẩn trong miệng gây nên

Đây là nguyên nhân gây hôi miệng đa dạng nhất do các vi khuẩn sống chủ yếu ở vùng miệng và lưỡi gây nên.

Thường xuyên đánh răng, dùng nước súc miệng diệt khuẩn và sử dụng đồ chuyên dụng để vệ sinh lưỡi sẽ giúp loại bỏ các vi khuẩn khó chịu rất hiệu quả.

2. Hôi miệng do hàm răng giả

Làm hàm răng nhân tạo mà không thường xuyên tháo ra đánh rửa thì thức ăn có thể bám vào các kẽ răng tăng cường sự tăng trưởng của các vi khuẩn gây hôi miệng.

Vậy nên, việc tháo ra đánh rửa răng giả thường xuyên là việc rất nhu yếu để giảm nguy cơ bị hôi miệng.

3. Hôi miệng do khô miệng

Khô miệng cũng có thể là tại sao gây hôi miệng, do thiếu độ ẩm các mô vùng miệng, không được làm sạch và vi khuẩn tiếp tục phát triển nhanh.

Uống đủ nước giúp tăng cường độ ẩm cho các mô vùng miệng để giảm vi khuẩn. Đánh răng và súc miệng đều cũng giúp giảm hôi miệng đáng kể.

4. Hôi miệng do thức ăn

Sử dụng các loại gia vị như hành, tỏi thường xuyên cũng có thể gây hôi miệng.

Giải pháp hiệu quả giảm hôi miệng sau khi ăn hành, tỏi là nên ăn rau mùi tây hoặc bạc hà để khử mùi hôi khó chịu này.

Cần đánh răng sau mỗi bữa ăn để giảm mùi khó chịu của thức ăn và hạn chế sự phát triển của các vi khuẩn gây hôi miệng.

5. Hôi miệng do hút thuốc lá

Hút thuốc lá không những gây hôi miệng mà còn gia tăng nguy cơ mắc các bệnh về nướu, lợi và phổi.

Tốt nhất nên bỏ hút thuốc để giảm hôi miệng và tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Có nên vệ sinh lưỡi? Giải đáp thắc mắc liên quan đến lưỡi

Thưa bác sĩ, em thường có thói quen đánh răng rất cẩn thận và thường xuyên. Tuy nhiên em còn được khuyên là nên cạo lưỡi nếu muốn hơi thở không có mùi khó chịu. Việc này có nhu yếu và có gây ảnh hưởng gì không? Mong bác sĩ trả lời giúp em.



Trả lời:

Nếu đánh răng là việc bắt buộc thì vệ sinh lưỡi bằng cách cạo rửa lại chủ yếu phụ thuộc vào sự lựa chọn của bạn.

Tại sao việc đánh răng lại rất quan trọng? Đó là bởi chức năng chủ yếu của việc đánh răng là giúp loại trừ các mảng bám trên răng, chứ chẳng hề để loại trừ mầm bệnh.

Mảng bám trên răng sẽ hình thành trong miệng của bất cứ ai. Các loại vi khuẩn sẽ luôn “hiện diện” trong các loại thức ăn và đồ uống bạn sử dụng mỗi ngày.

Theo các chuyên gia, mảng bám thường được hình thành trong vòng 24 giờ. Chính do vậy, mỗi ngày bạn nên đánh răng ít nhất từ 1 - 2 lần/ngày để ngăn ngừa việc hình thành những mảng bám. Đây cũng là cách tốt nhất để giữ cho hàm răng của bạn luôn chắc, khỏe và hạn chế tới mức thấp nhất nguy cơ bị mắc các bệnh về răng.

Còn mục đích chính của việc cạo lưỡi là để giữ cho hơi thở luôn được thơm tho. Một số người cần làm việc này rất thường xuyên nhưng thậm chí có những người lại chưa từng cạo lưỡi bao giờ.

Nhìn chung, đa phần lưỡi có khả năng tự làm sạch mà không nhất thiết phải nhờ đến sự trợ giúp từ phía “thân chủ”. Bởi lẽ lưỡi luôn có thể vận chuyển và nhờ vào quá trình tiết nước bọt liên tục nên có thể tự làm sạch. Chính vì thế, chỉ cần đánh răng, xúc miệng, loại bỏ những thực phẩm còn mắc lại là đủ để có một hơi thở được thơm tho.

Nếu việc đánh răng, xúc miệng không đủ để làm bạn thấy tự tin với hơi thở của mình thì có thể dùng đến thêm cách vệ sinh lưỡi. Hiện nay, trên thị trường cũng có bán số đông những dụng cụ cạo lưỡi có nhiều mẫu mã và tiện ích khác nhau, bạn có thể chọn cho mình một chiếc dụng cụ cạo lưỡi hợp nhất, nếu muốn.

Thưa bác sĩ một vài ngày gần đây, tôi phát hiện thấy lưỡi mình bị trắng. Tôi đã thử đánh răng và kỵ lưỡi nhiều lần nhưng không đem lại kết quả gì. Xin cho hỏi nguyên nhân của hiện tượng trên là gì và có nguy hiểm không? Xin cảm ơn.

Trả lời:

Trước hết phải nói với bạn rằng, hiện tượng trắng lưỡi không xảy ra thường xuyên và không nguy hiểm.

Trắng lưỡi có thể là do bị viêm nhiễm ở bề mặt của lưỡi.

Các loại vi khuẩn và tế bào chết chính là “thủ phạm” chính gây nên hiện tượng trên.

Bên cạnh đó, những tác nhân như hút thuốc, sự mất nước hay vệ sinh răng miệng và lưỡi không sạch sẽ cũng là một trong số những nguyên nhân.

Để phòng ngừa hiện tượng trắng lưỡi, hãy tuân thủ theo các nguyên tắc dưới đây:

- Nên cạo lưỡi đều đặn cùng với những lần đánh răng.

- Tránh xa thuốc lá

- Uống đủ lượng nước cần thiết ( từ 7 đến 8 cốc/ngày)

- Bổ sung chất xơ trong chế độ ăn uống.

- Nên ăn nhiều táo, bông cải xanh, ngô

Sau vài ngày nếu vẫn không thấy màu lưỡi trở lại bình thường bạn nên đi kiểm tra để có những kết luận chi tiết từ phía các chuyên gia.

Các thói quen làm hại răng miệng của trẻ

1/- Thói quen ngậm núm vú giả

Mút tay hay ngậm núm vú là một trong những tật xấu gây hại cho răng mà trẻ thường hay mắc phải. Tuy không gây sâu răng nhưng mút tay hay ngậm núm vú giả có thể dẫn tới răng trẻ bị hô sau này.
Hiệp hội Sức khỏe bà mẹ trẻ em Hoa Kỳ khuyên chỉ nên cho bé dùng núm vú giả khi trẻ được trên 1 tháng tuổi, tức là sau khi việc bú mẹ đã vươn lên là ổn định.Không nên cho trẻ ngậm núm vú giả ngay sau khi chào đời, hãy chờ đợi khi bạn đã thiết lập một chế độ bú đều đặn cho trẻ.


   Bú mẹ là bản năng của mỗi một em bé mới chào đời. Ngoài thời gian bú, nhiều người mẹ đã cho con mình ngậm vú giả. Các bà mẹ có thể dùng núm vú giả để con đỡ quấy khóc, Tuy vậy, không nên lạm dụng quá mức. Không nên để trẻ ngậm núm vú giả trong miệng quá  6 giờ đồng hồ liên tục, vì như thế dễ hình thành thói quen xấu ở trẻ, trẻ sẽ quấy khóc khi núm vú  giả trong miệng.
   Cha mẹ thường cho trẻ ngậm núm vú giả vì nghĩ đơn giản rằng, trẻ sẽ đỡ quấy khóc, không mút tay, đỡ mất vệ sinh. Nhưng ít người biết rằng, nếu trẻ ngậm núm vú giả thường xuyên trong thời gian dài sẽ gây nên các vấn đề về răng miệng làm hàm răng của trẻ bị biến dạng, rất dễ bị những phát triển bất thường về hàm, cơ mặt, cung răng và lưỡi.


   Cũng giống như mút ngón cái, thói quen ngậm núm vú giả có thể khiến hàm trên và hàm dưới của trẻ không khớp nhau khi cắn . Khi mút núm vú giả vào miệng, sẽ tạo lực ép vào hàm, trẻ mút nhiều, liên tục trong thời gian dài càng làm cho hàm chịu áp lực ép mạnh và lâu, sẽ làm cho răng và xương hàm phát triển lệch lạc. Hậu quả sẽ ảnh hưởng đến cấu tạo của hàm trên và hàm dưới, trẻ sẽ bị hô , hàm trên tăng trưởng nhô ra phía trước, hàm dưới thụt vào. Ngoài ra do hàm không lớn mạnh ra hai bên được, trẻ con có thể bị hẹp hàm.
   Hàm răng sữa ít chịu ảnh hưởng hơn hàm răng hỗn hợp. Trẻ 2-4 tuổi có răng sữa. Từ 5-7 tuổi, trẻ sẽ đổi sang có răng hỗn hợp ; ở lứa tuổi này, nếu để trẻ liên tục ngậm núm vú sau này trẻ sẽ không thể nào bỏ được thói quen ngậm một cái gì đó như mút ngón tay . vì vậy, các bậc cha mẹ không nên để con có thói quen mút núm vú giả, nếu đứa trẻ đã có thói quen này, cha mẹ cố gắng giúp trẻ quên dần đi rồi bỏ hẳn chẳng hạn bôi chút dầu gió hay tí chút thuốc đắng vào đầu núm vú khiến trẻ sợ.


   2/-Thói quen đẩy lưỡi:
Thói quen đẩy lưỡi là một trong những thói quen xấu gây Tác động đến tình trạng răng miệng của trẻ. Đẩy lưỡi mỗi khi nuốt điển hình kéo dài khoảng 1 giây, không đủ thời gian gây gây ảnh hưởng lên sự lệch lạc của răng. tuy nhiên, khi thực hiện động tác nuốt,  nếu đẩy lưỡi của trẻ về phía trước, thời gian kéo dài có thể làm sai vị trí của răng. Ở trẻ cắn không khít vùng răng cửa thì đẩy lưỡi là một nguyên nhân làm tăng nguy cơ gây lệch lạc răng.
   Tật đẩy lưỡi ra trước sẽ làm các răng phía trước, trên và dưới nghiêng ra phía trước và thưa nhau, hậu quả có thể làm trẻ bị hô răng trên và có khi gây cắn hở (do lưỡi gắn vào giữa răng cửa trên và dưới).
   - Nếu trẻ hay đưa lưỡi ra phía trước, cần hướng dẫn cho trẻ đặt lưỡi đúng vị trí, hoặc đưa đến Bác sĩ Răng Hàm Mặt để được hướng dẫn cách khắc phục.


   3)Tật thở bằng miệng:
   Một trong những nguyên nhân gây sai vị trí răng ở trẻ nữa là thở bằng miệng . Trẻ thở bằng đường miệng có thể do đường mũi bị cản trở , do có thói quen thở miệng, hoặc trẻ thở bằng mũi, nhưng do môi trên quá ngắn nên miệng vẫn hở khi thở mũi, khiến trẻ không thở bằng đường mũi được mà phải thở bằng đường miệng. Thường gặp ở những trẻ có vấn đề về đường hô hấp trên, gây khó thở, như viêm mũi, sưng amiđan , polip, vẹo vách mũi. Cách thở này làm cho trẻ bị hô và viêm họng.
   Thở bằng miệng sẽ làm khô niêm mạc miệng dễ gây sâu răng , làm lệch lạc răng và hàm trẻ sẽ bị hô. Tật thở bằng miệng làm hệ thống xương mặt phát triển không cân đối và cũng dễ dẫn đến những rối loạn về khớp cắn.
   Nếu trẻ thở bằng miệng mà nguyên nhân do các bệnh về mũi thì phải cho trẻ đi khám ngay để điều trị . Nếu nguyên nhân về mũi không còn mà trẻ vẫn có thói quen thở bằng miệng thì có thể dùng băng gạc băng cằm trẻ lại để trẻ không há miệng ra thở được mà phải tập thở bằng mũi.


   4)Tật nghiến răng:
   Nghiến răng là sự nghiến hoặc xiết chặt hàm răng một cách quá mức các răng ở hai hàm trên và dưới do sự tiếp xúc mạnh giữa mặt nhai của các răng trên và dưới, thường diễn ra vào lúc ngủ, lâu ngày tạo ra các diện mòn trên răng .Nghiến răng được xem như phản ứng đối với sự căng thẳng thần kinh và hiện tượng nầy xảy ra đông đảo ở những trẻ có hệ thần kinh dễ bị kích thích . Ngoài ra tật nghiến răng còn gặp khi trẻ bệnh động kinh , viêm não hay xáo trộn tiêu hóa.
   Tật nghiến răng xảy ra ở trẻ còn thường có liên quan đến sự phát triển và phát triển của chúng như răng lớn mạnh không đều, mọc răng,… Hầu hết trẻ bị tật này ở độ 6 tháng tuổi khi răng sữa bắt đầu mọc và trẻ hay bị lại lúc trẻ 5 tuổi có răng vĩnh viễn mọc .Tuy khoảng thời gian nghiến răng ở trẻ thường không lâu dài nhưng tật nghiến răng có thể làm ảnh hưởng xấu đến sự lớn mạnh hệ răng hàm. Đa số  trẻ hết tự nhiên lúc khoảng 12 tuổi.
   Tình trạng nghiến răng kéo dài có thể đưa đến những hậu quả xấu gây ảnh hưởng tới các hệ thống nhai như răng, cơ,  hàm và khớp thái dương hàm. Một số trẻ nghiến siết các răng mạnh đến nỗi làm vỡ men bờ cắn của các răng sữa hoặc gây mòn nhiều răng dẫn đến cắn sâu. Nghiến răng nhiều có thể làm nướu và hàm răng thay đổi, gây đau và rối loạn  khớp thái dương hàm, nhiều khi làm nhai khó và há miệng khó , trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến biến đổi hình dạng khuôn mặt tạo ra vẻ mặt mất cân xứng.
trường hợp trẻ có tật nghiến răng nên cho đi khám BS chuyên khoa răng hàm mặt để kiểm tra tình trạng về các khớp cắn, tình trạng viêm nhiễm vùng răng , nướu… Bác sĩ chỉnh hình răng hàm mặt đôi khi phải làm khí cụ cho trẻ đeo mới có thể bỏ được các tật xấu này.
 

   5/Tật cắn móng tay và gặm bút ở trẻ
   Có những tật xấu ở trẻ, nếu để lâu ngày sẽ tạo thành thói quen khó chữa. Điển hình cho những thói quen xấu này đó là tật cắn móng tay, không chỉ gây ảnh hưởng thẩm mỹ mà còn gây hại cho sức khỏe nữa.
   Các thói quen cắn móng tay, gặm bút , cắn các vật cứng rất có hại vì sẽ làm cho răng trẻ bị mòn, dễ rạn nứt, mẻ, ê , đau răng và giảm độ ngon miệng khi ăn uống lâu ngày còn có thể làm chết tủy răng và dễ có  nguy cơ bị sưng tấy hay nhiễm trùng phần da xung quanh móng gây mất vệ sinh hay dễ nhiễm các bệnh giun sán.
   Việc cắn móng tay có thể là do tâm lý hay do thói quen và trẻ làm việc này một cách không ý thức.Cha mẹ tránh la mắng, phạt trẻ vì có thể làm cho tật xấu càng vững mạnh hơn. Cha mẹ cần giải thích cho trẻ một cách nhẹ nhàng , xây dựng ý thức từ bỏ thói xấu này ở trẻ và nhắc nhở khi trẻ quên cho vào miệng , cha mẹ tìm cách lôi cuốn con trẻ vào những chú ý mới như những trò chơi khác cần sử dụng tay để trẻ không có cơ hội cắn móng tay.


   6)Tật chống cằm và mút môi trên:
   Những tật xấu khác như chống cằm, tật cắn môi... thường xảy ra khi trẻ đã lớn hơn, Nhiều trẻ thường hay có thói quen chống tay vào cằm hoặc dùng răng cửa dưới cắn môi trên, thói quen này không gây xô lệch răng một cách đáng kể ngay tức thì nhưng nếu kéo dài có thể gây hô hàm dưới tức là hàm dưới đưa ra hàm trên thụt vào , điều này dẫn theo trẻ bị móm.
   Cha mẹ có thể có thể đặt ra một mức phạt ưng ý hay vận dụng những biện pháp nghiêm khắc nếu trẻ còn tái diễn...


 7) Dùng tăm xỉa răng sau bữa ăn.
Tránh dùng tăm xỉa răng với động tác "xỉa"quá mạnh , đặc biệt là chọc xuyên tăm qua kẽ răng vì nếu dùng các vật nhọn xỉa răng thường xuyên ,có thể làm trẻ bị mòn răng, tổn thương ,nhiễm trùng nướu và sẽ làm hở kẽ răng ngày càng rộng ra thêm tạo cơ hội mắc thức ăn nhiều và dễ dàng hơn.
   Để loại sạch mảng bám trẻ nên chải răng bằng bàn chải, làm sạch kẽ răng bằng chỉ tơ nha khoa. Chỉ cho trẻ xỉa răng khi thật nhu yếu như khi bị thịt, thức ăn mắc vào răng. Nên cho trẻ dùng tăm xỉa răng đầu nhỏ vừa với kẽ răng và tương đối mềm để không gây chảy máu nướu.
   Ngoài ra, một số thói quen khác ảnh hưởng xấu đến răng miệng và nét đẹp gương mặt. Thói quen nằm nghiêng một bên lâu ngày sẽ làm lép một bên hàm và làm mất cân đối gương mặt trẻ.
   Tóm lại mong muốn của các bậc cha mẹ là khi trẻ lớn lên sẽ có hàm răng khỏe đẹp nhưng một số thói quen xấu về răng miệng khi trẻ còn nhỏ sẽ để lại hậu quả lâu dài cho răng, làm Tác động đến sức khỏe chung của cơ thể và thẩm mỹ của khuôn mặt trẻ sau này. Do đó cha mẹ cần chú ý loại bỏ các thói quen có hại cho răng của trẻ , phòng ngừa các thói quen không tốt cho răng , hàm phải bắt đầu từ lúc trẻ còn bú. Khi trẻ đã có biến chứng như hô, móm, phải đưa đến Bác Sĩ chuyên khoa Răng Hàm Mặt để chỉnh hình răng mặc dù việc điều trị sẽ lâu dài và tốn kém.


Răng của bé cũng cần được chăm sóc
Dù cho răng sữa của bé sẽ rụng đi và được thay thế bởi răng trưởng thành, nhưng chúng vẫn cần được chăm sóc hợp lý. Dưới đây là những lời khuyên giúp răng trẻ khoẻ mạnh, do Viện các bác sĩ gia đình Mỹ khuyến cáo.

- Không bao giờ là quá sớm để bắt đầu chải răng. Ngay khi chiếc răng đầu tiên của bé nhú lên, hãy cọ 2 lần mỗi ngày bằng một cái khăn ẩm.

- Khi bé được 1 tuổi, bắt đầu chải răng bằng bàn chải và kem (không có fluoride) được thiết kế riêng cho bé.

- Đưa bé đến gặp bác sĩ nha khoa khi được 1 tuổi. Từ đó trở đi, mỗi năm bé cần được kiểm tra lại 2 lần.

- Tránh uống quá nhiều nước quả, vì chúng có thể chứa nhiều đường dẫn đến gây sâu răng.

- Từ 1 tuổi trở đi không cho bé bú sữa bằng bình nữa.